Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển
- Trang Đỗ Quỳnh
- 4 thg 7, 2023
- 17 phút đọc
Đã cập nhật: 17 thg 7, 2023
Đề bài môn Biện pháp khắc phục thương mại:
Trình bày và phân tích các quy định về Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển (Developing Countries - DCs) trong các hiệp định về biện pháp khắc phục (BPKP) thương mại. Bình luận thực tiễn áp dụng các quy định này trong các vụ giải quyết tranh chấp (GQTC) của WTO.

Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các DCs là một trong những nguyên tắc cốt lõi của luật WTO. Nguyên tắc này xuất phát từ sự chênh lệch năng lực thương mại của các quốc gia đang và đã phát triển, được cụ thể hóa thành các quy định xuất hiện ở hầu hết các hiệp định của WTO, trong đó có các hiệp định về BPKP thương mại. Bài tiểu luận sẽ trình bày và phân tích các quy định này trong các hiệp định về BPKP thương mại, sau đó tiến hành bình luận thực tiễn áp dụng các quy định này trong các vụ GQTC của WTO.
1. Các quy định đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển trong các hiệp định về biện pháp khắc phục thương mại của WTO.
Thuật ngữ “các nước đang phát triển” (Developing countries) chỉ nhóm nước bao gồm các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. WTO chưa có định nghĩa cụ thể cho thuật ngữ này mà chỉ xác định dựa trên sự “tự công nhận” giữa các Thành viên; thông qua cơ chế phán quyết tranh chấp tòa phúc thẩm hoặc dựa trên cách tiếp cận thuật ngữ này từ các tổ chức quốc tế khác như Liên Hợp Quốc hay Ngân hàng thế giới. Nhấn mạnh ngay từ phần mở đầu của Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO, với mục tiêu bảo đảm mức độ tự do hóa thương mại quốc tế phải tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của DCs, các quy định “đối xử đặc biệt và khác biệt” (Special and Differential treatment - ‘S&D’) ra đời thể hiện sự ưu đãi rõ rệt nhất từ một cơ chế thương mại đa phương dành cho Thành viên DCs.
Các BPKP thương mại (trade remedies) hay các biện pháp “phòng vệ thương mại” là các biện pháp được WTO thừa nhận, do nước nhập khẩu tiến hành nhằm hạn chế thương mại không công bằng, bảo vệ sản xuất trong nước trong bối cảnh tự do hóa thương mại. Trong khuôn khổ WTO, các biện pháp này thể hiện dưới các hình thức biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Pháp luật WTO về các BPKP thương mại được quy định chung tại Điều VI, XVI, XVIII, XIX của GATT 1994 và được cụ thể hóa tại các Hiệp định ADA, SCM, SA, AoA. Tuy nhiên, biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG) trong AoA áp dụng cho cả thành viên phát triển và DCs có cam kết thuế hóa, do vậy không được đề cập trong phạm vi bài viết này.
Do đóng vai trò là nguyên tắc cốt lõi, các quy định S&D không thể không xuất hiện trong các Hiệp định về BPKP thương mại. Hệ thống các điều khoản S&D trong các hiệp định này bao gồm các quy định nền tảng tại Điều XXXVI, XXXVII GATT 1994, và được quy định cụ thể tại Điều 15 ADA, Điều 9 SA, Điều 27 SCM, Điều 9, 15 AoA. Phạm vi bài viết sẽ tập trung vào các quy định cụ thể này.
Tổng quan về nội dung của điều khoản S&D trong các Hiệp định về BPKP thương mại quy định về các vấn đề cơ bản gồm: (i) miễn giảm hoặc kéo dài thời gian thực thi thỏa thuận và cam kết; (ii) cho phép các DCs linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách thương mại; (iii) yêu cầu tất cả các thành viên WTO bảo vệ lợi ích thương mại của các thành viên DCs.
1.1. Hiệp định ADA về biện pháp chống bán phá giá - Điều 15
Hiệp định ADA thực thi Điều VI GATT 1994, tại Điều 15, quy định rằng các Thành viên phát triển phải bảo vệ lợi ích thương mại của DCs khi phải đặc biệt lưu ý đến “tình hình đặc thù” của các DCs khi xem xét áp dụng các biện pháp CBPG. Câu thứ hai Điều 15 đặt ra nghĩa vụ rằng các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi bán phá giá mang “tính xây dựng” phải được “xem xét” một cách tích cực trước khi đưa ra quyết định áp dụng thuế CBPG nếu biện pháp đó có khả năng ảnh hưởng đến “lợi ích cơ bản” của các Thành viên DCs. Cần lưu ý rằng các biện pháp CBPG đặt ra trong Hiệp định ADA bao gồm: cam kết giá, các biện pháp tạm thời và thuế CBPG; tuy nhiên theo BHT trong DS141, phạm vi áp dụng của cả hai câu trong Điều 15 chỉ là giai đoạn trước khi quyết định áp dụng thuế CBPG chính thức.
1.2. Hiệp định SA về biện pháp tự vệ - Điều 9
Hiệp định SA đưa ra các nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ theo Điều XIX của GATT 1994, trong đó có nguyên tắc S&D. Tại Điều 9.1 Hiệp định SA quy định rằng các biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ một Thành viên DCs nếu như: (i) thị phần nhập khẩu sản phẩm của nước đó tại nước nhập khẩu không vượt quá 3% tổng lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan; và (ii) tổng lượng nhập khẩu từ tất cả các Thành viên DCs thỏa mãn điều kiện (i) không vượt quá 9% tổng lượng nhập khẩu sản phẩm đang bị điều tra áp dụng biện pháp tự vệ. Trong khi đó đối với các thành viên khác chỉ cần đáp ứng điều kiện áp dụng của một biện pháp SA thì, không tính đến thị phần nhập khẩu, hàng hóa của nước đó vẫn có khả năng bị nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ.
Với tư cách là chủ thể áp dụng các biện pháp tự vệ, Điều 9.2 cho phép một Thành viên DCs có quyền linh hoạt, mở rộng thời hạn áp dụng tự vệ thương mại với nước khác thêm 2 năm nữa so với thời hạn tối đa được áp dụng tự vệ thương mại thông thường là 8 năm, tức là tổng cộng các DCs có tối đa 10 năm gia hạn áp dụng. Thời hạn cũng được kéo dài giữa hai lần áp dụng lại một biện pháp tự vệ. Theo đó, Thành viên DCs có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ sau thời gian bằng một nửa thời gian mà biện pháp này đã áp dụng trước đây, với điều kiện ít nhất là 2 năm, trong khi các Thành viên khác phải chờ một khoảng thời gian bằng thời gian mà biện pháp đó đã áp dụng trước đây (Điều 7.5 SA).
1.3. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Nhằm cụ thể hóa quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng tại các Điều VI, XVI GATT 1994, xuất phát từ sự công nhận vai trò quan trọng của biện pháp trợ cấp đối với mục tiêu phát triển kinh tế của nhóm Thành viên DCs, các quy định ưu đãi S&D cho nhóm này được cụ thể tại Điều 27 Hiệp định SCM và Hiệp định AoA với nhóm sản phẩm nông nghiệp.
Cụ thể, trong Hiệp định SCM, Điều 27.1 và 27.15 yêu cầu các Thành viên WTO phải bảo vệ lợi ích cho thành viên DCs. Các Điều 27.2-27.4, 27.6-27.13 cho phép DCs linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách thương mại. Trong đó nội dung quan trọng thứ nhất, Điều 27.2 quy định rằng việc cấm trợ cấp xuất khẩu được quy định tại Điều 3.1(a) sẽ không áp dụng đối với: (i) các Thành viên DCs nêu tại phụ lục VII [1]; (ii) các Thành viên DCs khác tại Điều 27.2(b) trong 8 năm đầu Hiệp định WTO có hiệu lực. Sản phẩm có trợ cấp xuất khẩu này chỉ phải chịu thuế đối kháng nếu gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của quốc gia nhập khẩu. Thành viên DCs đã đạt được tính cạnh tranh xuất khẩu vẫn có khoảng thời gian nhất định cho việc xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu: 8 năm với các thành viên thuộc Phụ lục VII và 2 năm với các DCs khác (Điều 27.5).
Cần lưu ý, một số điều khoản ưu đãi như các Điều 27.2(b), 27.3, 27.4, 27.6, 27.11, 27.14 có hiệu lực gắn liền với giai đoạn chuyển tiếp (transitional period), tức là khoảng thời gian 5 năm hoặc 8 năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực (ngày 1/1/1995), do vậy các điều khoản này đã hết hạn lần lượt từ thời điểm ngày 1/1/2000 và 1/1/2003. Tuy vậy, theo Điều 27.4, thời hạn chuyển tiếp 8 năm có thể gia hạn thêm cho các Thành viên DCs ở Điều 27.2(b) nếu, trước ngày 1/1/2002, tham vấn với Ủy ban và được Ủy ban xác định là có cơ sở (21 nước DCs đã được cho phép gia hạn (xem Báo cáo Thường niên của Ủy ban năm 2003, G/L/655, đoạn 23).
Nội dung chính thứ hai của quy định S&D yêu cầu các cơ quan chức năng, trong cuộc điều tra thuế chống trợ cấp, áp dụng biên độ trợ cấp ở mức tối thiểu (de minimis) đối với hàng hóa nhập khẩu từ Thành viên DCs cao hơn so với mức tối thiểu chung 1% được quy định (Điều 27.12). Cụ thể, tại Điều 27.10, mọi cuộc điều tra về thuế chống trợ cấp đối với một sản phẩm có xuất xứ từ Thành viên DCs phải được chấm dứt ngay sau khi các cơ quan có liên quan xác định rằng: (a) biên độ trợ cấp tổng thể cho sản phẩm được đề cập không vượt quá 2% giá trị của sản phẩm đó tính trên cơ sở một đơn vị; hoặc (b) khối lượng nhập khẩu được trợ cấp chiếm dưới 4% tổng lượng nhập khẩu sản phẩm tương tự và tổng lượng nhập khẩu có xuất xứ từ các Thành viên DCs đáp ứng điều kiện trên không vượt quá 9% tổng thị phần nhập khẩu sản phẩm tương tự vào Thành viên nhập khẩu. Mức tối thiểu tại Điều 27.10(a) có thể nâng lên 3% với các đối tượng nêu tại Điều 27.11, trong đó có LDCs, tuy nhiên như đã đề cập ở trên thì điều khoản này đã hết hiệu lực.
Ngoài ra, Điều 27 cũng quy định ưu đãi đối với các trợ cấp có thể đối kháng áp dụng bởi Thành viên DCs tại Điều 27.8, 27.9, 27.13: thiệt hại không được suy đoán là “nghiêm trọng” theo Điều 6.1, DCs có thể không bị áp dụng chế tài tại Điều 7 khi dựa trên lý do đã gây “thiệt hại nghiêm trọng” đến lợi ích của các Thành viên khác [Báo cáo BHT, Indonesia - Autos, WT/DS59/R, đoạn 14.156], thay vào đó bên áp dụng chế tài phải dựa trên sự chứng minh hai hệ quả còn lại theo Điều 5 (Điều 27.8, 27.9); hay không áp dụng quy định tại phần III cho việc xoá nợ trực tiếp, trợ cấp nhằm bù đắp chi phí xã hội, dưới bất kỳ hình thức nào của DCs khi đáp ứng điều kiện ở Điều 27.13. Cũng cần lưu ý rằng, Điều 6.1 chỉ có hiệu lực trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định WTO có hiệu lực (Điều 31).
Bên cạnh đó, trong Hiệp định AoA, các Thành viên LDCs không có nghĩa vụ phải đưa ra cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu nông sản, các DCs khác có nghĩa vụ cắt giảm trợ cấp xuất khẩu ở mức ưu đãi hơn so với các nước phát triển như: lượng cắt giảm bằng ⅔ các nước phát triển với giai đoạn chuyển tiếp dài hơn, không bị yêu cầu phải thực hiện cam kết đối với các loại trợ cấp xuất khẩu tại Điều 9.1(d),(e) trước năm 2001 (Điều 9.2, 9.4, Điều 15 Hiệp định AoA). Thực tế, nhiều nước DCs vẫn duy trì trợ cấp này sau năm 2000. Trong giai đoạn 1995 - 2004, trợ cấp xuất khẩu cho sản phẩm nông nghiệp khi tuân thủ các yêu cầu cần thiết chỉ bị đối kháng khi gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu (Điều 13). Tại Tuyên bố Nairobi (2015), DCs và LDCs chính thức được duy trì các khoản trợ cấp xuất khẩu theo Điều 9.4 AoA tới năm 2023 và 2030.
2. Thực tiễn áp dụng các quy định S&D liên quan đến biện pháp khắc phục thương mại trong các vụ giải quyết tranh chấp của WTO.
Các quy định S&D đã dành cho Thành viên DCs những thuận lợi nhất định trong việc thích ứng điều kiện của mình với thị trường toàn cầu trong suốt trong quá trình giao thương với các Thành viên phát triển, đặc biệt trên phương diện GQTC.
Tuy vậy, mặc dù được coi là các điều khoản đối xử đặc biệt nhưng thực tế việc áp dụng các điều khoản này trong GQTC chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong bối cảnh ⅔ trong tổng số 164 quốc gia thành viên WTO là DCs. Theo thống kê của WTO tính đến thời điểm hiện tại, chỉ có 7/140 vụ tranh chấp về CBPG trong khuôn khổ WTO được viện dẫn đến Điều 15 ADA, con số tương ứng là 7/134 với Điều 27 SCM (03 vụ đưa ra HĐXX thì không có phán quyết nào nghiêng về DCs), còn đối với Hiệp định AoA thì hầu như không có tranh chấp liên quan được đưa ra HĐXX. Con số này có khả quan hơn với Điều 9 SA, tuy vậy trong số 15/62 vụ tranh chấp được đưa ra HĐXX có viện dẫn điều này thì cũng chỉ có 5 vụ Thành viên DCs đã giành được phần thắng (DS202, DS415-418). Đây có thể coi là một minh chứng cho khả năng áp dụng không cao của các điều khoản S&D. Lý giải cho thực tiễn này có thể thấy:
Thứ nhất, xuất phát từ điều kiện phát triển đặc thù nên các Thành viên DCs chưa có nhiều cơ hội đầu tư, chú trọng vào đội ngũ pháp lý, do vậy hệ thống pháp lý ở các quốc gia này nhìn chung chưa phát triển mạnh dẫn đến đến sự “e dè”, thiếu kinh nghiệm, sẵn sàng nhượng bộ trong việc áp dụng, đặc biệt là trong quá trình GQTC với các nước lớn và có nhiều ưu thế pháp luật như EU hay HK.
Thứ hai, từ mặt khách quan có thể thấy, cơ chế thực thi các điều khoản S&D kể trên không thực sự tạo ra một nghĩa vụ thực tế cho các Thành viên phát triển hay một quyền thực tế cho các DCs, chẳng hạn như: Điều 15 ADA không đòi hỏi bất kỳ một kết quả cụ thể nào từ việc thực hiện nghĩa vụ bởi Thành viên phát triển; Điều 9.1 SA không chỉ rõ Thành viên phải tuân thủ nghĩa vụ này như thế nào và sẽ không mang đến quyền lợi cho một nước đang phát triển có thị phần nhập khẩu sản phẩm dưới 3% nhưng khó có thể thỏa mãn yêu cầu xét trong tổng số thị phần của tất cả DCs nhập khẩu vào dưới 9%; Quy định thời hạn chuyển tiếp tại Điều 27.2(b) SCM dẫn đến một bất cập là Thành viên DCs gia nhập sau năm 2002, như Việt Nam, Trung Quốc, có nghĩa vụ xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu tương tự Thành viên phát triển ngay từ khi gia nhập mà không được tiếp cận những ưu đãi trong giai đoạn nâng cao năng lực cạnh tranh, trong khi các ưu đãi khác về trợ cấp xuất khẩu quá “mờ nhạt” với họ [2].
Tuy khả năng áp dụng không cao nhưng không có nghĩa là các điều khoản này không hề mang lại lợi ích phát triển công bằng cho các thành viên DCs theo mục đích của WTO. Thực tế cho thấy vẫn có những tranh chấp mà phán quyết cuối cùng nghiêng về lợi ích của Thành viên DCs, ví dụ điển hình có thể kể đến:
2.1. DS141: EC - Bed Linen (Điều 15 Hiệp định ADA)
Điều 15 ADA được CQGQTC viện dẫn để giải quyết trong 3 vụ tranh chấp (DS141, DS206 và DS219), trong đó DS141 giữa nguyên đơn Ấn Độ và bị đơn EC, phán quyết đã có lợi cho Ấn Độ - thành viên DCs. Năm 1998, Ấn Độ yêu cầu tham vấn với EC liên quan đến thuế CBPG mà EC áp dụng đối với khăn trải giường cotton nhập khẩu từ nước này từ năm 1997, trong đó có khiếu nại rằng EC đã không chiếu cố trường hợp đặc biệt Ấn Độ là một “nước đang phát triển” theo Điều 15 Hiệp định ADA. Nghĩa vụ Điều 15 đặt ra ở câu thứ hai. Theo BHT trong DS141: (i) “các BPKP mang tính xây dựng” được hiểu là các công cụ hữu ích để chống lại tác động của hành vi bán phá giá gây thiệt hại, chẳng hạn như áp thuế CBPG với thấp hơn mức tính toán hoặc cam kết về giá, (ii) nghĩa vụ “xem xét” các khả năng đòi hỏi phải được chủ động thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia phát triển với mong muốn đạt được một kết quả tích cực, nhưng không đòi hỏi bất kỳ việc chấp nhận một yêu cầu nào.
Lập luận chính của EC về lý do không có cam kết nào được chấp nhận là do các nhà xuất khẩu không đưa ra cam kết giá nào trong thời hạn 10 ngày theo quy định của EC đặt ra. Tuy nhiên, BHT cho rằng, theo nghĩa vụ Điều 15, EC lẽ ra phải đưa ra một số phản hồi sau khi nhận được thư đề nghị thỏa thuận đưa ra các cam kết của các nhà sản xuất Ấn Độ ngày 13/10/1997. Sự không phản hồi và sự từ chối thể hiện trong lá thư của EC ngày 22/10/1997, không chỉ ra rằng “khả năng” của một cam kết giá đã được “xem xét”, mà rõ ràng nó bị từ chối ngay từ ban đầu. Do vậy, không có gì chứng tỏ rằng EC đã tích cực thực hiện nghĩa vụ theo câu thứ hai Điều 15 [EC - Bed Linen, WT/DS141/R, đoạn 6.221, 6.228, 6.238]. Phán quyết cuối cùng kết luận EC đã vi phạm những nghĩa vụ của mình theo Điều 15 Hiệp định ADA.
Vai trò của CQGQTC trong trường hợp này là rất quan trọng để thiết lập vai trò của WTO trong việc duy trì quyền lợi của DCs trong bối cảnh phòng vệ thương mại. Trong vòng đàm phán Doha năm 2001, khuyến nghị được Uỷ ban CBPG của WTO thông qua năm 2002 (G/ADP/9) có đề cập một giải pháp nâng cao tính ứng dụng của Điều 15: đặt ra nghĩa vụ nộp báo cáo của các nước phát triển lên Ủy ban thống kê nửa năm một lần về cách thức mà các nghĩa vụ của Điều 15 đã thực hiện. Tuy nhiên kể cả trong trường hợp các Thành viên có thực hiện khuyến nghị này thì cũng không phủ nhận được rằng thực chất Điều 15 ADA không đặt ra một nghĩa vụ nào cụ thể dưới dạng một kết quả của việc “xem xét” mà chỉ đặt ra vấn đề tích cực trong hành động của Thành viên phát triển dành cho DCs.
2.2. DS202: US - Line Pipe (Điều 9.1 Hiệp định SA).
Năm 2000, Hàn Quốc yêu cầu tham vấn với HK về biện pháp tự vệ do HK áp đặt đối với hàng nhập khẩu đường ống dây chất lượng carbon đã vi phạm Điều 9.1 Hiệp định SA vì đã đối xử với các nhà nhập khẩu từ DCs, trong đó có Hàn Quốc, như tất cả các Thành viên khác khi phân bổ cùng một hạn ngạch thuế quan (9.000 tấn) mà không tính đến thị phần nhập khẩu thấp hơn mức tối thiểu của họ. Theo dữ liệu mới nhất tại thời điểm biện pháp có hiệu lực, hạn ngạch 9.000 tấn miễn trừ thuế bổ sung chỉ chiếm 2,7% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các tài liệu và thông báo của HK đều không nêu rõ danh sách các nước DCs được loại trừ theo Điều 9.1, theo BHT, HK đã không tuân thủ nghĩa vụ tại Điều 9.1 [US - Line Pipe, WT/DS202/R, đoạn 7.180].
Tuy nhiên, CQPT đồng ý với HK rằng Điều 9.1 không chỉ ra một Thành viên phải tuân thủ nghĩa vụ này như thế nào và thừa nhận HK có thể tuân thủ Điều 9.1 “kể cả khi không cung cấp một danh sách các Thành viên được loại trừ khỏi biện pháp”. Để giải quyết câu hỏi liệu rằng khi không có quy định loại trừ rõ ràng, biện pháp này, như HK khẳng định, có đảm bảo không cấu thành sự “áp dụng chống lại một sản phẩm” có xuất xứ từ DCs nhập khẩu vào HK dưới mức tối thiểu tại Điều 9.1 hay không, CQGQTC nhận thấy rằng thuế quá hạn ngạch “áp dụng” cho sản phẩm khi Thành viên áp đặt các điều kiện để sản phẩm đó thâm nhập vào thị trường mà không xét đến tác động thương mại của nó (kể cả khi thuế chưa được thu). CQGQTC cũng cho rằng không có gì đảm bảo “dự kiến”, theo HK, rằng khi biện pháp này làm giảm tổng lượng nhập khẩu thì hạn ngạch này sẽ chiếm hơn 3%, và thực tế thì HK đã không thực hiện các bước hợp lý để miễn trừ các nước DCs xuất khẩu dưới mức tối thiểu trong Điều 9.1 khỏi việc bị áp thuế bổ sung [US - Line Pipe, WT/DS202/AB/R, đoạn 127–129, 132]. Phán quyết cuối cùng kết luận HK đã vi phạm Điều 9.1 Hiệp định SA.
Nhận định của CQPT trong US - Line Pipe đã trở thành nguồn án lệ quan trọng giải thích ý nghĩa pháp lý của Điều 9.1. Hiện nay, địa vị của DCs trong WTO vẫn dựa trên cơ chế “tự công nhận” giữa các thành viên, do vậy nhiều DCs, trong đó có Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ,... không được hưởng ưu đãi S&D về tự vệ do luật pháp của HK (và một số nước phát triển) không công nhận địa vị của họ, ngược lại cũng có những quốc gia lợi dụng nó để yêu cầu hưởng ưu đãi. Đây cũng là một bất cập trong cơ chế áp dụng quy định S&D, đòi hỏi WTO cần sớm đưa một khái niệm về DCs thống nhất giữa các quốc gia thành viên.
KẾT LUẬN
Biện pháp khắc phục thương mại đang được các nước, đặc biệt là các Thành viên DCs tăng cường sử dụng trong thời gian gần đây như một công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước trước những nguy cơ thương mại không công bằng, thúc đẩy phát triển kinh tế và giữ vững công ăn việc làm cho người lao động. Vì vậy việc nắm rõ và vận dụng một cách phù hợp các quy định S&D là hết sức cần thiết để tạo ra một lợi thế thương mại cho nhóm các nước này theo nguyên tắc của luật WTO.
Thông tin thêm:
Được nêu tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 11 ở Buenos Aires tháng 12/2017, Trưởng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ cho rằng, cần phải làm rõ cách hiểu về vấn đề “phát triển” vì một số nước giàu vẫn tự nhận là DCs để được hưởng những quy định ưu đãi. Thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại ở Việt Nam, cũng cho thấy trong mỗi vụ việc, Việt Nam đều phải xử lý yêu cầu của một số nước đề nghị công nhận họ là DCs (như Nga, Singapore, Ả-rập Xê-út...).
[1] Các Thành viên DCs nêu tại phụ lục VII bao gồm: (i) các Thành viên WTO là LDCs theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc; và (ii) Thành viên DCs có thu nhập bình quân đầu người đạt mức 1.000USD/năm (cập nhật dựa trên dữ liệu gần nhất của WB - chú thích số 68, cập nhật hàng năm được lưu hành trong loạt tài liệu G/SCM/110/...).
[2] Nguyễn Quỳnh Trang (2018), Pháp luật về trợ cấp đối với các nước đang phát triển theo quy định của WTO – Bài học với Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.55
Tài liệu tham khảo
Võ Anh Phúc (2020), “Những đối xử đặc biệt và khác biệt của tổ chức thương mại thế giới (WTO) dành cho những nước đang phát triển”, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nhung-doi-xu-dac-biet-va-khac-biet-cua-to-chuc-thuong-mai-the-gioi-wto-danh-cho-nhung-nuoc-dang-phat-trien-76102.htm, truy cập ngày 3/11/2021.
“Index of disputes by agreement cited”, World Trade Oganization, https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/dispu_agreements_index_e.htm, truy cập ngày 2/11/2021.
Nguyễn Quỳnh Trang (2018), Pháp luật về trợ cấp đối với các nước đang phát triển theo quy định của WTO – Bài học với Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Ủy ban Thương mại và phát triển WTO (2021), Special and differential treatment provisions in wto agreements and decisions, WT/COMTD/W/258, https://docs.wto.org/dol2fe/Pages/SS/directdoc.aspx?filename=q:/WT/COMTD/W258.pdf&Open=True.
Báo cáo Ban Hội thẩm, European Communities - Anti-Dumping Duties on Imports of Cotton-type Bed Linen from India (“EC - Bed Linen”), WT/DS141/R, phát hành ngày 27/10/2000, sửa đổi bởi báo cáo Cơ quan phúc thẩm thông qua ngày 12/3/2001.
Báo cáo Cơ quan phúc thẩm, European Communities - Anti-Dumping Duties on Imports of Cotton-type Bed Linen from India (“EC - Bed Linen”), WT/DS141/AB/R, thông qua ngày 12/3/2001.
Báo cáo Ban Hội thẩm, United States - Definitive Safeguard Measures on Imports of Circular Welded Carbon Quality Line Pipe from Korea (“US - Line Pipe”), WT/DS202/R, thông qua ngày 8/3/2002.
Báo cáo Ban Hội thẩm, Indonesia - Certain Measures Affecting the Automobile Industry (“Indonesia - Autos”), WT/DS59/R, thông qua ngày 23/7/1998.
Comments